Quy định pháp luật về điều kiện tái định cư đất bị giải tỏa?

Kính gửi Luật Thái Dương,

Tôi là Phan Thanh Hải, hiện đang là sinh viên tại TPHCM, gia đình tôi đang có một vụ kiện tụng về đất đai với UBND Thành phố Quy Nhơn. Tôi muốn được tư vấn về các vấn đề sau:

Về việc cấp đất tái định cư cho bên đơn của UBND TP và Ban Quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng (QLDA ĐT&XD) trong trường hợp diễn ra tranh chấp (hiện đang trong quá trình kháng cáo), liệu điều này có tuân theo quy định pháp luật vào cuối năm 2006 không? Tại thời điểm đó, có lý do gì?

Trường hợp này, liệu UBND TP nên giải quyết bằng cách cấp một lô đất tạm thời cho bên đơn, niêm phong tài sản, và chờ đợi kết quả cuối cùng của bản án trước khi thực hiện theo quy định của pháp luật không? Xin hỏi điều khoản pháp luật nào áp dụng trong trường hợp này?

Trong quá trình tranh chấp đang diễn ra, Tòa án đã có công văn ngăn chặn (4/2005) để tạm ngừng việc cấp tiền bồi thường và cấp đất. Tuy nhiên, chỉ một tháng sau đó, Ủy ban đã cấp giấy xác nhận quyền sở hữu nhà ở và đất cho bên đơn. Liệu điều này có phải là vi phạm quy định của pháp luật và có hợp lý hóa các thủ tục không hợp lý cho bên đơn?

Gần đây, UBND đã từ chối biết về công văn ngăn chặn trong câu hỏi thứ hai và tiếp tục hợp pháp hóa tài liệu cho bên đơn (trong khi gia đình tôi đã có giấy xác nhận quyền sở hữu nhà ở và đất do Ủy ban xác nhận vào năm 1993).

Trong trường hợp này, khi công văn ngăn chặn đã được gửi đến Ban giải tỏa mở đường và UBND Phường (nơi cấp giấy xác nhận quyền sở hữu nhà ở và đất phi pháp cho bên đơn – 5/2005) thì liệu hành động của UBND Phường và Ban quản lý Dự án Đầu tư Xây dựng có vi phạm quy định của pháp luật không?

Gia đình chúng tôi sẽ có phiên tòa vào ngày 19/4 sắp tới, trong vụ kiện với UBND TP và Ban QLDA ĐT, sau lễ “Giỗ tổ Hùng Vương”. Chúng tôi rất mong nhận được câu trả lời sớm nhất từ bạn về những thắc mắc trên. Xin chân thành cảm ơn Luật Thái Dương!

Trân trọng,

Phan Thanh Hải

 

Trả lời:

  1. Theo Quyết định số 08/2007/NQ-UBND: Ban hành quy định về trình tự, thủ tục, chính sách và tiêu chuẩn tái định cư khi nhà nước thu hồi đất tại:

Điều 4. Chính sách, tiêu chuẩn để xét giải quyết tái định cư diện ưu đãi cho các hộ có nhà, đất hợp pháp bị giải tỏa trắng

  1. Đối với hộ có nhà ở, đất ở hợp pháp (được bồi thường đất ở) bị giải tỏa trắng; có nhà ở trên phần đất đó mà nhà ở này được xây dựng từ trước khi quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt thì được xét giải quyết 1 suất tái định cư hộ chính.
  2. Đối với hộ làm nhà ở trên đất nông nghiệp hợp pháp bị giải tỏa trắng, đã làm nhà ở và thực sự có ở tại đó từ trước khi quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, có hộ khẩu (thường trú, tạm trú dài hạn diện KT3) tại địa chỉ của căn nhà này, không còn nhà ở nào khác trong phạm vi huyện, thị, thành phố Biên Hòa nơi có đất thu hồi thì được xét giải quyết tái định cư 1 suất tái định cư hộ chính.
  3. Các hộ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở tại đô thị, quyết định cấp đất ở… mà trong giấy đó có công nhận đất ở hợp pháp, có làm nhà nhưng chưa ở tại căn nhà đó hoặc chưa làm nhà, nay bị thu hồi hết đất hoặc phần đất còn lại sau khi thu hồi không làm nhà ở lại được thì được xét giải quyết 1 suất tái định cư hộ chính.
  4. Trường hợp đặc biệt có nhiều thế hệ sống chung trong cùng một hộ nhưng chưa làm thủ tục tách hộ do đất là của ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em ruột cho tặng trong phạm vi gia đình là cha, mẹ, anh, chị, em ruột. Người nhận cho tặng đất được xét giải quyết 1 suất tái định cư hộ phụ nếu có đủ các điều kiện sau:

– Người cho, tặng đất thuộc một trong hai đối tượng quy định tại Điểm 1, Điểm 2 Điều 4 của Quy định này.

– Người nhận đất phải có nhà ở riêng trên thửa đất đó từ trước khi quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và không có nơi ở khác trong phạm vi huyện, thị, thành phố Biên Hòa nơi có đất thu hồi.

– Phải chứng minh được đã kết hôn trước khi có quyết định thu hồi đất (đối với trường hợp cha mẹ cho con đất cất nhà ở để ở riêng sau khi lập gia đình), có đăng ký kết hôn từ trước khi quyết định thu hồi đất mà một trong hai người có đăng ký hộ khẩu (thường trú, tạm trú dài hạn diện KT3) tại địa chỉ của căn nhà này.

Trường hợp lập gia đình mà không có đăng ký kết hôn thì phải có xác nhận UBND phường, xã, thị trấn.

– Phải có giấy cho tặng đất hoặc nhà đất do phường xã xác nhận mà diện tích cho, tặng lớn hơn hoặc bằng 40m2.

Quy định này chỉ áp dụng trong phạm vi gia đình là ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em ruột, không giải quyết các trường hợp có họ hàng bà con khác. Số suất tái định cư hộ phụ được giao là số hộ thực tế tăng thêm có ở tại thửa đất đó.

  1. Xét tái định cư cho các hộ có nhiều nhân khẩu sống trong cùng một hộ:

Các hộ sử dụng đất hợp pháp đủ tiêu chuẩn xét giải quyết tái định cư, ngoài tiêu chuẩn được xét như quy định tại điểm 1, điểm 2 Điều 4 của Quy định này, nếu có từ 8 đến 12 nhân khẩu sống trong cùng một hộ, cùng chung hộ khẩu (thường trú, tạm trú dài hạn), có diện tích đất thu hồi lớn hơn hoặc bằng 80m2 thì được xét giao thêm 1 suất tái định cư hộ phụ. Trường hợp có diện tích đất thu hồi lớn hơn hoặc bằng 120 m2, có trên 12 nhân khẩu sống trong cùng một hộ thì xét giao thêm 2 suất tái định cư hộ phụ.

Quy định này không áp dụng cho các nhân khẩu được chuyển đến sau khi đã có quyết định thu hồi đất, không áp dụng cho trường hợp có nhiều thế hệ sống chung chưa tách hộ như đã quy định tại Điểm 4 Điều 4 của Quy định này. Trường hợp là con cháu trong hộ gia đình được sinh ra (có giấy khai sinh) từ sau khi có quyết định thu hồi đất thì được tính vào số nhân khẩu sống chung để xét.

  1. Xét hỗ trợ bằng tiền cho các hộ có khuôn viên đất rộng bị Nhà nước thu hồi đất:
  2. Các hộ sử dụng đất hợp pháp đủ tiêu chuẩn xét giải quyết tái định cư, ngoài tiêu chuẩn được xét như quy định tại Điểm 1, Điểm 2 Điều 4 của Quy định này, nếu có diện tích đất thu hồi lớn hơn hoặc bằng 1.000m2 tại thành phố Biên Hòa, 3.000m2 tại thị xã Long Khánh, 4.000m2 tại các thị trấn và 10.000 m2 tại các khu vực nông thôn còn lại khác thì xét hỗ trợ bằng tiền 1 suất tái định cư phân tán hộ phụ.

– Nếu có diện tích đất thu hồi lớn hơn hoặc bằng 2.000m2 tại thành phố Biên Hòa, 6.000m2 tại thị xã Long Khánh, 8.000m2 tại các thị trấn và 20.000 m2 tại các khu vực nông thôn còn lại khác thì xét hỗ trợ bằng tiền 2 suất tái định cư phân tán hộ phụ.

Số suất hỗ trợ tái định cư phân tán hộ phụ được lũy tiến với diện tích đất thu hồi theo phương pháp trên.

  1. Các hộ bị thu hồi thuần túy là đất nông nghiệp sử dụng hợp pháp, không đủ tiêu chuẩn xét giải quyết tái định cư hộ chính, nếu có diện tích đất thu hồi lớn thì cũng được xét hỗ trợ như quy định tại tiết a, Điểm 6 Điều 4 của Quy định này.

Trường hợp cấp đất tái định cư cho bị đơn của UBND TP và Ban QLDA ĐT&XD phải tuân theo quy định tại Điều 4 – Quyết định số 08/2007/NQ-UBND tuy nhiên trong trường hợp đất đang có tranh chấp xảy ra thì việc cấp đất tái định cư là không đúng quy định của pháp luật.

Theo Điều 111 BLTTDS năm 2015 về Quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

“1. Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có quyền yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án đó áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.

  1. Trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.
  2. Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp quy định tại Điều 135 của Bộ luật này.”

Dần đến các Khoản 6, Khoản 7, Khoản 8 tại Điều 114 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định về Các biện pháp khẩn cấp tạm thời:

“6. Kê biên tài sản đang tranh chấp.

  1. Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp.
  2. Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.”

Trường hợp này UBND TP nên giải quyết là cấp 1 lô đất tạm thời cho bị đơn, niêm phong tài sản để tránh thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp và đợi kết quả cuối cùng của bản án thì mới đúng quy định pháp luật.

  1. Trong trường hợp Tòa án đã có công văn ngăn chặn và ngừng cấp tiền bồi thường và cấp đất gửi đến UBND phường về việc thụ lý vụ án của tòa án sơ thẩm nhưng đúng 1 tháng sau, quý ủy ban cấp giấy xác nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở cho bị đơn thì bên UBND đã vi phạm Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015:

“Điều 175. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu chứng cứ

  1. Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.”

  1. Với trường hợp khi có căn cứ UBND chối bỏ là không nhận được công văn ngăn chặn của Tòa án nói trên và hồn nhiên không biết điều này, nên cứ thế hợp thức hóa giấy tờ cho bị đơn thì bạn có thể làm đơn khiếu nại lên các cơ quan có thẩm quyền giải quyết:

Điều 7. Trình tự khiếu nại

  1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Điều 9. Thời hiệu khiếu nại (Luật khiếu nại 2011)

Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.

 

Chi tiết xin liên hệ: Công ty Luật Thái Dương FDI Hà Nội

Điện thoại: 0866 222 823

Email: luatthaiduonghanoi@gmail.com

Website: https://luatthaiduonghanoi.com

Fanpage: https://www.facebook.com/luatthaiduongfdihanoi

Địa chỉ: Tòa nhà Licogi 13, Số 164 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội

0866222823